Ý nghĩa tên gọi Đại_Cồ_Việt

Quốc hiệu Đại Cồ Việt do vua Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968. Đại Cồ Việt là quốc hiệu được dùng trong 8 đời vua của 3 triều Đinh, Tiền Lê, Lý, với quãng thời gian dài 86 năm (968 - 1054). Đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 1 (1054), vua Lý Thánh Tông mới đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Điều này có nghĩa là khi dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, nước vẫn mang quốc hiệu là Đại Cồ Việt.

Ý nghĩa quốc hiệu Đại Cồ Việt:

"Đại" (大) theo nghĩa chữ Hán là lớn, "Cồ" (瞿) là âm Hán-Việt cổ của từ Cự hay Cừ (巨) cũng là lớn. Đinh Tiên Hoàng muốn ghép hai chữ để khẳng định nước Việt là nước lớn.[3][4][5]. Về sau, Cồ (𡚝) được viết theo chữ Nôm là Đại ở trên và Cù (瞿) ở dưới.

Ý nghĩa này còn được thể hiện ở hai câu đối (vẫn còn trong đền vua Đinh Tiên HoàngHoa Lư):[6]

Cồ Việt quốc đương Tống Khai BảoHoa Lư đô thị Hán Trường An.

Nghĩa là:

Nước Cồ Việt ngang hàng với nhà Tống đời Khai Bảo;Kinh đô Hoa Lư như Tràng An của nhà Hán.

Lê Văn Siêu trong Việt Nam văn minh sử cương giải thích:

"Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi theo lối hiểu ngày xưa, ấy là cái cao vọng của người không những muốn thống trị mà còn muốn bành trướng thế lực ra tám cõi nữa"[7]